Khi nhắc tới UCP 600 chắc hẳn các doanh nghiệp làm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu không còn xa lạ gì nữa. Vậy UCP 600 là gì? Và tại sao các doanh nghiệp lại quan tâm và biết rộng đến như vậy? Ở bài viết này chúng tôi sẽ làm rõ một số vấn đề về UCP 600, hãy theo dõi hết bài bạn nhé.
I.UCP 600 là gì?
1.UCP 600 là gì?
UCP 600 thuộc UCP là viết tắt của “The Uniform Custom and Practice for Documentary Credit” (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ), là ấn phẩm của phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce - ICC). Trong đó quy định quyền hạn của các bên liên quan trong giao dịch tín dụng chứng từ, nhằm đáp ứng nhu cầu của giới tài chính, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp, các nhà xuất nhập khẩu về một văn bản quy định đầy đủ, dễ áp dụng và được chấp nhận một cách thống nhất trong việc mở và xử lý một thư tín dụng (Letter of Credit – L/C).
2. Lịch sử ra đời và phát triển của UCP 600
Để đáp ứng tình hình kinh tế luôn biến động, kể từ khi công bố UCP đầu tiên năm 1933, Phòng thương mại quốc tế (ICC) đã tiến hành sửa đổi 5 lần vào các năm 1951, 1962, 1974, 1983, 1993.
Lần sửa đổi lần thứ ba của UCP (UCP 290 - 1974) đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc tạo ra những thay đổi chứng từ và thủ tục. Những thay đổi này là để phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng trong vận tải đường biển, trong đó phải kể đến cuộc cách mạng “container hoá” đang trong giai đoạn ngày càng hoàn thiện hơn về kỹ thuật, tổ chức quản lý, đạt kết quả kinh tế cao và sự phát triển của vận tải đa phương thức.
Tiếp theo là bản sửa đổi UCP 400 (1983), ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn thương mại quốc tế:
* Thời kỳ từ năm 1981 cho đến những năm gần đây được xem là giai đoạn hoàn thiện và phát triển theo chiều sâu của hệ thống vận tải container, là thời kỳ container được sử dụng ngày càng rộng rãi trong vận tải đa phương thức.
* Sự phát triển các chứng từ mới và các phương thức phát hành chứng từ mới để hỗ trợ cho các hoạt động buôn bán .
* Cuộc cách mạng thông tin liên lạc đánh dấu sự ra đời một loại truyền tải thông tin mới đó là giao dịch thương mại bằng các phương thức xử lý dữ liệu điện tử (Electronic data processing EDP)
* Sự phát triển của các loại thư tín dụng mới, như thư tín dụng trả chậm và thư tín dụng dự phòng.
Bản sửa đổi UCP 500 (1993) là kết quả của 5 năm nghiên cứu của các chuyên gia và uỷ ban quốc gia của ICC. Lần sửa đổi này ngoài mục đích chính là để đáp ứng được sự phát triển mới trong công nghiệp vận tải và những ứng dụng công nghệ mới còn xuất phát từ bất cập phần lớn chứng từ xuất trình bị từ chối do không phù hợp với thư tín dụng.
UCP 500 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1994. Để đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, thanh toán quốc tế cũng phải thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển đó. Do đó, UCP được bổ sung thêm phần về thanh toán điện tử hay gọi là eUCP và có hiệu lực từ ngày 01/04/2002.
Tuy nhiên, ngay khi công việc xem xét lại được tiến hành, thông qua một số kết quả điều tra toàn cầu, uỷ ban Kỹ thuật và Nghiệp vụ ngân hàng nhận thấy có tới khoảng 70% chứng từ xuất trình theo tín dụng thư đã bị từ chối ở lần xuất trình đầu tiên vì có sai sót. Điều này sẽ làm cho chi phí tăng lên do các trường hợp phải chịu phí chứng từ bất hợp lệ gia tăng và quan trọng hơn là những sai sót chứng từ lại tỏ ra không mấy rõ ràng, làm ảnh hưởng không tốt tới phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, vốn dĩ là phương thức thanh toán quốc tế có nhiều ưu điểm.
Do đó, vào tháng 5 năm 2003, phòng thương mại quốc tế (ICC) đã uỷ quyền cho uỷ ban Kỹ thuật và nghiệp vụ Ngân hàng (ICC Commission on Banking Technique and Practice) bắt đầu xem xét lại UCP500 để có thể có những sửa đổi cần thiết đáp ứng với tình hình thực tiễn mới.
Cũng như những lần sửa đổi trước đây, mục đích chính của lần sửa đổi lần này là để đáp ứng được sự phát triển mới trong hoạt động ngân hàng, vận tải, bảo hiểm. Sau 3 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, ICC đã thông qua Bản quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 600 (UCP 600), có hiệu lực từ ngày 01/07/2007.
II. Vai trò của UCP 600 trong điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ
1. UCP 600 xác định quyền lợi và nghĩa vụ của ngân hàng trong khuôn khổ thư tín dụng
Sự ra đời của UCP đã đánh dấu một bước đột phá mới trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế, bởi UCP là cơ sở pháp lý duy nhất quy định một cách cụ thể trách nhiệm của các bên tham gia phương thức tín dụng chứng từ, mà chú trọng nhất là trách nhiệm của ngân hàng.
UCP 600 khẳng định bản chất của thư tín dụng là một cam kết thanh toán có điều kiện của Ngân hàng phát hành bằng việc quy định trách nhiệm của ngân hàng phát hành trong điều 7 như đã phân tích ở trên. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng phát hành có quyền từ chối trong trường hợp bộ chứng từ xuất trình có sai sót. Mặt khác, ngân hàng xác nhận với tư cách là ngân hàng thứ 3 đứng ra chịu trách nhiệm trả tiền thay cho ngân hàng phát hành nếu ngân hàng phát hành không có khả năng thanh toán.
UCP 600 cũng quy định rõ trách nhiệm của các ngân hàng có liên quan khác như ngân hàng thông báo, ngân hàng thương lượng thanh toán, ngân hàng hoàn trả…Trách nhiệm của ngân hàng nói chung là làm thế nào để phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được vận hành an toàn và suôn sẻ. Ngân hàng làm việc chỉ dựa trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình mà không quan tâm tới hợp đồng nên đây cũng là căn cứ duy nhất để ngân hàng xem xét đồng ý hay từ chối trả tiền cho người hưởng lợi hay là để người nhập khẩu đồng ý hay từ chối trả tiền cho ngân hàng.
Do đó, trong phương thức tín dụng chứng từ, bộ chứng từ đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá.
Bằng việc quy định rõ quyền, nghĩa vụ của các ngân hàng tham gia vào quy trình tín dụng chứng từ. UCP 600 đã đảm bảo chắc chắn cam kết thanh toán của ngân hàng đối với người xuất khẩu, tạo lòng tin cho người xuất khẩu trong giao dịch mua bán ngoại thương. Từ đó, thúc đẩy góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển.
2.UCP 600 là nguồn luật cơ sở để xây dựng các điều khoản chính cho thư tín dụng chứng từ
UCP 600 quy định cụ thể về tiêu chuẩn lập các loại chứng từ như chứng từ thương mại, chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm,…Nội dung của các loại chứng từ này thể hiện rõ trách nhiệm của người xuất khẩu trong việc giao hàng đúng hạn và đúng địa điểm đã thoả thuận (Bill of lading), đảm bảo cung cấp đúng loại hàng hoá (Invoice), bồi thường rủi ro (Insurance), theo đúng chất lượng, số lượng đã thoả thuận (Certificate of Quality, Certificate of Quantity), đúng nguồn gốc xuất xứ (Certificate of Origin) và các trách nhiệm khác.
Nếu theo đúng các điều khoản quy định trong UCP 600, các ngân hàng có thể tư vấn cho người nhập khẩu đưa vào nội dung thư tín dụng những điều khoản buộc người xuất khẩu phải tuân thủ miễn sao nó không mâu thuẫn với các điều khoản của hợp đồng đã ký giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.
3. UCP 600 là tiêu chí chung cho việc kiểm tra bộ chứng từ
Trên cơ sở các quy định của UCP 600, người nhập khẩu đã đưa vào nội dung L/C những yêu cầu đối với hàng hoá và những yêu cầu bắt buộc người xuất khẩu phải thực hiện thông qua việc xuất trình bộ chứng từ gồm những chứng từ và văn bản pháp lý nhất định. Người xuất khẩu, để được ngân hàng thanh toán tiền hàng, sẽ phải lập các chứng từ với nội dung sao cho thể hiện rõ mình đã hoàn thành mọi yêu cầu mà người nhập khẩu đưa ra. Chính vì vậy, ki kiểm tra chứng từ xuất trình, ngân hàng không chỉ dựa trên L/C mà còn phải dựa trên UCP để xác định chứng từ có tuân thủ đúng các quy định của UCP 600 hay không. Nếu bộ chứng từ người xuất trình có sai sót thì ngân hàng phải lập tức thông báo và yêu cầu người xuất khẩu sửa đổi cho phù hợp.
Trước khi UCP ra đời, các ngân hàng thuộc các nước khác nhau phải áp dụng luật thương mại của nước mình để điều chỉnh các quan hệ trong thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng. Điều này đã dẫn đến các mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột xảy ra trong thực tiễn sử dụng phương thức tín dụng chứng từ mang tính quốc tế. Điều này dễ hiểu vì mỗi nước có các nguồn pháp lý khác nhau theo cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Hơn nữa, phương thức tín dụng chứng từ là một quy trình phức tạp đòi hỏi phải tiến hành một cách chặt chẽ. Vì vậy, chỉ từ khi UCP ra đời thì các vấn đề nêu trên mới được giải quyết. UCP ra đời với mục đích chính là tinh lược thực tiễn ngân hàng quốc tế nhằm tiêu chuẩn hoá các thực tiễn chung đang áp dụng
4. UCP 600 góp phần thúc đẩy hoạt động tín dụng chứng từ tại các ngân hàng ngày càng thuận tiện và phát triển hơn
Hiện nay, tất cả các ngân hàng kiểm tra chứng từ xuất trình dựa trên các nguyên tắc của UCP 600, và đương nhiên mọi tranh chấp phát sinh cũng được điều chỉnh theo UCP 600. Hơn nữa, là ấn bản mới nhất được sửa đổi dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia tài chính – ngân hàng nên UCP 600 giúp cho hoạt động ngân hàng được thuận tiện hơn, giúp cho hoạt động thanh toán quốc tế nhanh gọn và chuyên nghiệp.
Dưới sự điều chỉnh của UCP 600, hoạt động ngân hàng được thống nhất trên phạm vi thế giới, cùng với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật tiên tiến, tốc độ xử lý giao dịch được đẩy nhanh, đáp ứng nhu cầu về đẩy nhanh hoạt động thương mại (trong đó có thanh toán quốc tế).
Ngoài ra, chính UCP cũng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc lập các chứng từ thương mại, góp phần thúc đẩy tốc độ hoạt động thương mại, tốc độ hội nhập toàn cầu của bản thân từng doanh nghiệp và qua đó thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển thịnh vượng.
III. Một số bất cập của UCP 600
1. Chưa quy định về chứng từ bất hợp lệ xuất trình theo thư tín dụng chuyển nhượng (Irrevocable transferable L/C)
Hiện nay, hoạt động mua bán hàng hoá trung gian rất phát triển vì vậy, loại thư tín dụng chuyển nhượng cũng được áp dụng rộng rãi và phổ biến. Trong điều 38 của UCP 600 đã quy định khá đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia. Tuy nhiên, ngân hàng chuyển nhượng không chịu bất cứ trách nhiệm gì về hệ quả phát sinh do hành động chuyển nhượng của mình. Ngân hàng không bị ràng buộc về thanh toán, chấp nhận hay chiết khấu chứng từ của người hưởng lợi thứ hai xuất trình tại nó.
Hơn nữa, ở điều kiện thanh toán Ngân hàng ghi rõ “chứng từ sẽ được chấp nhận và chuyển tiếp cho ngân hàng phát hành, sau khi nhận được tiền thanh toán, chúng tôi sẽ hoàn trả các ông theo chỉ thị” (Documents will be further forwarded to the issuing bank after our receipt. We will remit to you as instructed upon receipt of reimbursement from the issuing bank).
Từ đó, nhận thấy một điều rằng với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng chuyển nhượng chưa có quy định gì về việc kiểm tra chứng từ và xử lý như thế nào nếu trong bộ chứng từ xuất trình có sai sót.
2. UCP nói chung và UCP 600 nói riêng quy định ngày phát hành của chứng từ bảo hiểm chưa phù hợp với thực tiễn
Ngày phát hành chứng từ bảo hiểm cũng giống như ngày phát hành các giấy chứng nhận kiểm tra (inspection certificate), trong đó một chứng nhận chỉ ra rằng việc kiểm tra được thực hiện sau ngày giao hàng sẽ không được chấp nhận nhưng một giấy chứng nhận xác nhận rằng hàng hoá đã được kiểm tra mà không đề cập gì tới ngày thực hiện kiểm tra lại được chấp nhận. Tương tự như thế, nếu chứng từ xuất trình chứng minh được rằng hàng hoá được bảo hiểm trong suốt hành trình từ địa điểm giao hàng tới địa điểm nhận hàng hoặc từ cảng giao hàng đến cảng nhận hàng thì được công nhận mà không cần quan tâm đến ngày phát hành bảo hiểm đó có được phát hành sau ngày giao hàng hay không.
Đặc biệt, trong trường hợp nhà xuất khẩu ký hợp đồng bao (open cover) tức là tất cả các chuyến hàng sẽ tự động được bảo hiểm theo hợp đồng này, và mặc dù từng chuyến hàng hoặc công ty bảo hiểm sẽ phát hành một giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate) mà không ghi rõ ngày hiệu lực của chứng từ bảo hiểm. Mặc dù theo UCP 600 cũng như UCP500 quy định ngày phát hành hay còn gọi ngày ký chứng từ bảo hiểm cũng là ngày hiệu lực bảo hiểm. Hàng hoá phải được đóng bảo hiểm trước khi được giao lên tàu. Và ngày ký chứng từ bảo hiểm phải trước hoặc trùng với ngày ký B/L hay ngày bốc hàng lên tàu. Nhưng những phân tích trên cho thấy việc UCP nói chung trong đó có UCP 600 nói riêng quy định ngày phát hành trùng với ngày giao hàng là không cần thiết đối với ngành bảo hiểm vì thực tiễn đã cho thấy tính phí hợp lý của nó. Vấn đề này nên được đưa ra bàn thảo, xem xét lại trong bản sửa đổi lần sau.
3. Vẫn chưa thống nhất triệt để giữa luật quốc gia và UCP
Mặc dù gần đây, luật quốc gia và thông lệ quốc tế có chiều hướng xích lại gần nhau trong thực tiễn thanh toán quốc tế nhưng không thể nói là các mâu thuẫn giữa các nguồn luật này không còn. Hiện nay, đã có một số quốc gia ban hành những văn bản dưới luật và những nghị định cụ thể điều chỉnh nguồn luật quốc gia với thông lệ quốc tế UCP. Ví dụ, liên bang Nga, Mỹ, Trung Quốc, Australia…
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam chưa có nguồn luật riêng, thậm chí là nghị định, thông tư hay văn bản dưới luật trực tiếp điều chỉnh hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Luật Việt nam quy định rằng chỉ áp dụng tập quán quốc tế với điều kiện nó không trái với pháp luật Việt nam, điều đó có nghĩa luật Việt nam luôn chiếm ưu thế hơn. Trong khi đó, Luật pháp Mỹ lại quy định là khi L/C dẫn chiếu đến UCP thì UCP sẽ được áp dụng.
Vậy, nếu xảy ra xung đột liên quan tới nguồn luật giữa Mỹ và Việt nam thì sẽ áp dụng nguồn luật điều chỉnh nào, luật quốc gia hay UCP?
Hơn nữa, ngay chính việc vận dụng vào thực tiễn của các nước trên thế giới là khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, thông lệ tập quán từng nước…
Ví dụ, theo điều 873 chương 46 - Bộ luật dân sự (Civil Code) của liên bang Nga (có hiệu lực ngày 01/03/1996) quy định một số vấn đề giao dịch tín dụng chứng từ liên quan đến UCP 500, theo đó, nếu ngân hàng không nói rõ L/C không được huỷ ngang thì được coi là L/C huỷ ngang.Trong khi UCP500 (Điều 6) lại quy định rằng nếu không ghi rõ thuộc loại nào, thì Tín dụng đó được coi là không thể huỷ bỏ, còn UCP 600 (Điều 3) thậm chí còn không đề cập đến thư tín dụng có thể huỷ ngang. Do đó, mối quan hệ này cũng cần phải được chú ý hơn.
IV.Tình hình áp dụng UCP 600 tại Việt Nam
1. Thực tiễn áp dụng UCP 600 của các ngân hàng thương mại
1.1 Những khó khăn trong giai đoạn đầu UCP 600 có hiệu lực
Khó khăn lớn nhất mà các ngân hàng gặp phải là do nhiều nhà doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam chưa chủ động tìm hiểu kỹ về UCP 600, hơn nữa, một thói quen khá lâu sử dụng UCP500. Họ chỉ quan tâm những điều gây bất lợi cho mình như quy định phải thanh toán sớm cho nhà xuất khẩu nên chỉ muốn áp dụng nguồn luật cũ UCP500. Do đó, ngân hàng không dễ dàng trong việc tư vấn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và thống nhất áp dụng UCP 600.
1.2. Đánh giá những hoạt động của các ngân hàng để phù hợp với những thay đổi của UCP 600
a.Những mặt tích cực
Chính là sự tiếp nhận một cách tích cực và chủ động trong công tác chuẩn bị của các ngân hàng trước những thay đổi của UCP, thông tin về các hoạt động được phổ biến rộng rãi trên các thông tin như Internet, Tạp chí ngân hàng, Thời báo kinh tế…đã khuyến nghị, khích lệ cho hoạt động áp dụng UCP 600 vào thực tiễn được sâu rộng và hiệu quả.
Các thanh toán viên cũng như các doanh nghiệp được trang bị kiến thức theo mục đích sử dụng nên không có xáo trộn đáng kể khi UCP 600 có hiệu lực. Các kế hoạch chi tiết về thời gian, đối tượng đào tạo, nội dung đào tạo, giảng viên nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế, các chuyên gia trực tiếp tham gia soạn thảo UCP truyền đạt nên tiết kiệm được chi phí và thời gian.
b.Những mặt còn hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực, việc áp dụng UCP của các ngân hàng thương mại Việt nam vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Trước hết, do chênh lệch về tỷ lệ sử dụng phương thức tín dụng chứng từ giữa các chi nhánh có sự chênh lệch rất lớn do khối lượng giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu của các chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh lớn gấp nhiều lần so với các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố khác.
Cho nên việc đào tạo chưa triển khai tới toàn bộ các chi nhánh cấp I và cấp II, các thanh toán viên tại các chi nhánh không có cơ hội mở rộng kiến thức, thực hành về UCP 600, thậm chí có những chi nhánh như Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Bến Thuỷ từ năm 2006 đã giải tán phòng thanh toán quốc tế do hoạt động không có hiệu quả, và rất nhiều Ngân hàng thương mại khác tại thành phố Vinh khi được hỏi về UCP 600 đều trả lời là chưa có cơ hội tiếp cận.
Ngoài ra, hoạt động về quản lý rủi ro đối với việc phát hành L/C có giá trị lớn cũng chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, các thanh toán viên phụ trách việc thẩm định hầu hết chỉ căn cứ theo hợp đồng ngoại thương của khách hàng, thiên về mối quan hệ và cảm tính chứ chưa dựa trên các thông tin phân tích tài chính.
Ví dụ, thị trường loại hàng hoá ghi trong hợp đồng hiện nay diễn biến như thế nào? Tình hình tài chính của doanh nghiệp ra sao? …Từ đó, xúc tiến thẩm định khách hàng và giá trị thực L/C để xác định được rủi ro nội tại trong L/C. Tuy nhiên, việc thu thập các thông tin của các thanh toán viên vẫn còn mang tính thụ động, chưa có bộ phận quản lý và phân tích thông tin. Rất nhiều quy định trong UCP 600 đối với ngân hàng phát hành, Ngân hàng thông báo, Ngân hàng thương lượng thanh toán đòi hỏi phải tìm hiểu và mở rộng với các ngân hàng đại lý trên toàn thế giới nhưng những bất cập trong việc thu thập nguồn thông tin như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn an toàn giao dịch và quản lý rủi ro.
2. Một số kiến nghị mang tính giải pháp nhằm thúc đẩy khả năng áp dụng UCP 600 tại các NHTM Việt Nam.
2.1. Kiến nghị đối với phòng thương mại quốc tế ICC
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, xuất nhập khẩu ngày càng phát triển nhanh và mạnh, do vậy, không thể khẳng định UCP sẽ luôn phù hợp với thực tiễn hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Do đó, không quá sớm cho việc bắt đầu tiến hành những bất cập của UCP 600. Như trên đã phân tích, UCP 600 ngoài rất nhiều điểm mới phù hợp hơn với thực tiễn thương mại quốc tế và có thể giải quyết được những bất cập của UCP 500, tuy nhiên, UCP vẫn còn những mặt tồn tại nhất định. Vậy phải làm thế nào để hạn chế tranh chấp xuất phát từ những hạn chế đó? Những rủi ro liên quan đến UCP 600 thường xuất phát từ những nội dung chưa bao quát được những trường hợp khác nhau.
Vì vậy, khi mở thư tín dụng chúng ta nên đưa vào thư tín dụng những điều khoản cụ thể để hạn chế tối đa khả năng phát sinh do các bất cập của UCP 600. Ví dụ, tên điều 19 UCP 600 là “Chứng từ vận tải đối với hành trình có ít nhất hai hình thức vận tải khác nhau” nhưng trong thực tế nó vẫn được áp dụng ngay cả khi chỉ có một phương thức vận tải được sử dụng. Do đó, nội dung này cũng cần được quy định cụ thể trong thư tín dụng. Nhưng điều quan trọng nhất khi áp dụng UCP 600 vào tín dụng chứng từ là phải luôn cẩn thận, đọc và phân tích kỹ các điều khoản để tìm ra những điểm chưa hợp lý trong các điều khoản của L/C hay UCP 600 để kịp thời điều chỉnh trước khi xảy ra những điều đáng tiếc. Sở dĩ đây được coi là tiêu chí quan trọng nhất vì nó quyết định tới phân nửa sự thành công của giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ.
2.2. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý (Chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt Nam)
a.Đối với chính phủ và các bộ ngành có liên quan:
Tạo một hành lang pháp lý minh bạch điều chỉnh mối quan hệ giữa UCP 600 và luật quốc gia. Cụ thể là cần xây dựng các văn bản Luật hoặc dưới luật như Luật, nghị định, các văn bản dưới luật…quy định hành lang pháp lý rõ ràng về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Đặc biệt có cơ chế pháp luật điều chỉnh đối với từng trường hợp cụ thể khi xảy ra xung đột giữa luật quốc gia và UCP 600.
Tuy nhiên, để ban hành được nguồn luật về thanh toán quốc tế không phải ngày một ngày hai mà là một quá trình nghiên cứu lâu dài, Chính phủ cần có sự đồng thuận, hợp tác, ủng hộ từ phía ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta đang trong quá trình hội nhập và tiềm năng phát triển là rất lớn. Trước xu thế đó đòi hỏi chính phủ phải kịp thời ban hành các nghị định về thanh toán quốc tế để phù hợp với lộ trình hội nhập thương mại quốc tế của Việt Nam, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Một điều chúng ta phải thừa nhận là các doanh nghiệp nước ngoài vẫn còn e ngại khi hợp tác với nước ta bởi thủ tục pháp lý rườm rà và chưa rõ ràng.
b.Đối với ngân hàng nhà nước:
Cần tập trung nguồn lực và đầu tư cần thiết để kết hợp với Chính phủ ban hành Nghị định về thanh toán quốc tế. Cố vấn về mặt chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để cơ quan Chính phủ sớm hoàn chỉnh nội dung nguồn luật. Thành lập một nhóm hay bộ phận riêng biệt chuyên phụ trách về thanh toán quốc tế hướng dẫn chỉ đạo kiểm tra tình hình hoạt động này đối với các ngân hàng thương mại. Thống nhất về phổ cập UCP 600 tới các ngân hàng thương mại để các thanh toán viên trên toàn hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và vận dụng đúng UCP 600, tránh tình trạng UCP 600 bị suy diễn theo một cách riêng.
Để làm được điều này, ngân hàng nhà nước cần chính thức ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích dễ hiểu về việc áp dụng UCP 600. Ngoài ra, ngân hàng nhà nước cũng nên ban hành đồng thời hệ thống pháp quy hướng dẫn quy trình thực hiện phương thức tín dụng chứng từ, tránh tình trạng các ngân hàng thương mại tự do thay đổi quy trình theo điều kiện riêng của mình như thực tế hiện nay của Việt Nam. Như vậy, chúng ta mới nâng cao được năng lực cạnh tranh về nghiệp vụ thanh toán trên trường quốc tế.
c.Đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam
Cho đến khi Chính phủ và Ngân hàng nhà nước ban hành các văn bản Quan hệ giữa các Ngân hàng thương mại được điều chỉnh dựa trên nguyên tắc chung theo các quy ước, thông lệ quốc tế và luật pháp của mỗi nước. Theo đó, ở mỗi quốc gia cũng không thể thống nhất tuyệt đối về quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.
Do đó, các ngân hàng cần tự giác ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế trong hệ thống của mình trên tinh thần tuyệt đối tuân theo quy tắc, tập quán quốc tế mà không trái với pháp luật Việt nam.
Triển khai các lớp tập huấn cho toàn hệ thống, tổ chức mang tính định kỳ các cuộc hội thảo hướng dẫn về nội dung UCP 600, những điểm mới so với UCP500 cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu-những người trực tiếp tham gia phương thức tín dụng chứng từ nhằm thúc đẩy giao dịch thương mại diễn ra nhanh chóng và giảm thiểu gánh nặng cho các ngân hàng trong việc xử lý giao dịch, giảm thiểu rủi ro cho cả hai bên ngân hàng và khách hàng.
Trong quá trình đầu áp dụng, các NHTM cần có tinh thần hợp tác, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau trong nghiệp vụ cũng như khai thác nguồn thông tin. Các NHTM cần coi hoạt động tín dụng chứng từ là một mảng hoạt động chung, tương tác hỗ trợ nhau phát triển. Chủ động tiếp cận, nghiên cứu, bỗ sung, tu chỉnh kịp thời trước những thay đổi của các nguồn luật.
d.Đối với các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế
Theo điều tra của cơ quan đại diện cho cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam, cả nước ta hiện nay có khoảng 34000 doanh nghiệp,trong đó có 70% số giám đốc doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa qua đào tạo chính quy về nghiệp vụ ngoại thương, vậy mà có tới 80-85% số doanh nghiệp này lại thường xuyên tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc uỷ thác xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, trình độ ngoại ngữ phổ cập nhất (tiếng Anh) của các cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn rất hạn chế nên có thể nói các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp không ít khó khăn trong quá trình giao dịch. Để khắc phục được vấn đề này, các doanh nghiệp phải lên kế hoạch đào tạo cụ thể cho cán bộ công nhân viên.
Đặc biệt, đối với việc cập nhật và áp dụng UCP 600, cần tham gia đầy đủ các hội thảo, các lớp đào tạo tại các Trường đại học chuyên ngành hay tại Phòng thương mại và công nghiệp tổ chức. Các doanh nghiệp phải nhìn vào kết quả thực tế đa số bộ chứng từ họ xuất trình lần đầu tiên theo thư tín dụng đã bị từ chối vì có sai sót, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cả về thời gian và tiền bạc.
Do đó, bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự cập nhật các kiến thức để tự bảo vệ mình và tự tin khi tham gia vào thương mại quốc tế.
e.Đối với các cơ sở đào tạo nghiệp vụ ngân hàng nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng.
Để đào tạo và phổ cập kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn trong ngành ngân hàng trong đó có phương thức tín dụng chứng từ thì vai trò của các trường đại học chuyên ngành là rất quan trọng. Không chỉ góp phần trong việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên mà còn là nơi giảng dạy đào tạo sinh viên, những người gánh vác vận mệnh tương lai của đất nước. Do đó, việc trang bị các kiến thức chuyên sâu và mang tính thực tiễn là mục tiêu lớn nhất của những người làm công tác đào tạo.
Tóm lại, mặc dù trong giai đoạn đầu áp dụng vẫn chưa có vấn đề nào nổi cộm liên quan tới UCP 600 nhưng phương thức tín dụng chứng từ là một hoạt động rộng, mang tính quốc tế nên đòi hỏi tất cả các ngân hàng, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không được chủ quan mà cần đặt mối quan tâm hàng đầu vào việc tiếp tục tìm hiểu và đào tạo theo chiều sâu để có thể vận dụng UCP 600 một cách có hiệu quả nhất.
Nội dung của văn bản chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển
- Tên gọi của chứng từ
Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cho dù được gọi như thế nào, thì bản UCP 600 không quan tâm, miễn sao là nội dung của chứng từ đáp ứng đủ những quy định của bản UCP.
Ví dụ: Có một loại chứng từ khi xuất trình tại ngân hàng có tiêu đề là: “Bill of Lading or Sea Waybill for Combined transport Shipment or port to port Shipment” thì nó vẫn chưa phải là cơ sở để việc ngân hàng chấp nhận hay từ chối, mà việc chấp nhận hay là từ chối sẽ phụ thuộc vào nội dung của chứng từ xem có thể hiện theo đúng quy định hay không.
- Người phát hành và người ký văn bản chứng từ
+ Người phát hành chứng từ: Đối với loại giấy tờ vận đơn bằng đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, bạn phải chỉ rõ tên người chuyên chở (indicate the name of the carrier), nhưng bạn không được thể hiện và ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (contain no indication that it is subject to a charter party).
Đối với việc vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, thì bạn không cần chỉ rõ tên người chuyên chở, nhưng bạn phải ghi là phụ thuộc vào nội dung trong hợp đồng thuê tàu (containing an indication that it is subject to charter party).
+ Người ký chứng từ: Theo bản UCP 600 thì người ký các văn bản chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau:
Đối với việc vận đơn bằng đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, thì người ký chứng từ có thể là người chuyên chở hay là các đại lý hoặc người thay mặt người chuyên chở; thuyền trưởng hay các đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng.
Đối với việc vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, thì người ký chứng từ sẽ có khác đôi chút so với người ký chứng từ trên vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển.
Cụ thể như, người ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu thì có thể là thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt cho thuyền trưởng; chủ tàu hay đại lý hoặc người thay mặt cho chủ tàu; người thuê tàu hay đại lý hoặc người thay mặt cho người thuê tàu (người thuê tàu thường được gọi là người chuyên chở).
Đối với người ký chứng từ, khi ký phải thể hiện rõ được cái tư cách pháp lý của mình. Còn riêng đối với đại lý, khi ký, ngoài việc thể hiện là đại lý, còn phải ghi rõ ra là đại lý cho ai, nghĩa là bạn phải ghi rõ tên của người mà mình là đại lý cho họ.
- Xếp hàng lên tàu
Trên văn bản chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, bản UCP 600 quy định rất rõ ràng và cụ thể về hàng xếp lên tàu.
Chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ là hàng hóa đã được xếp lên tàu chỉ định tại cảng giao hàng quy định trong nội dung thư tín dụng (tiếng anh là: indicate that the goods have been shipped on board a name vessel at the port of loading stated in the credit).
Nội dung này trong chứng từ có thể được thể hiện bằng hai cách, hoặc là một cụm từ được in sẵn (pre-printed wording) hoặc là một ghi chú cụ thể là hàng đã được xếp lên tàu và phải ghi ngày xếp hàng lên tàu (an onboard notation indicating the date on which the goods have been shipped in board).
- Ngày giao hàng
Theo quy định mới của bản UCP 600 thì ngày phát hành vận đơn sẽ được coi là ngày giao hàng (the date of issuance of the Bill of Lading will be deemed to be the date of shipment), trừ khi là trên chứng từ của giấy vận chuyển đã có ghi chú ngày xếp hàng lên tàu thì ngày xếp hàng lên tàu đấy sẽ được coi như là ngày giao hàng (the date stated in the on board notation will be deemed to be the date of shipment).
Như vậy, theo quy định của bản UCP 600, thì ngày xếp hàng lên tàu chính là ngày giao hàng. Còn ngày phát hành chứng từ trên giấy vận chuyển sẽ được coi như ngày giao hàng nếu trên chứng từ không có ghi chú khác về ngày xếp hàng lên tàu.
Trên thực tế thì cũng có khá nhiều những trường hợp ngày phát hành chứng từ vận chuyển có thể trước hoặc sau ngày xếp hàng lên tàu – Trong những trường hợp như thế này thì không được coi ngày phát hành chứng từ vận chuyển là ngày giao hàng.
- Hành trình của hàng hóa
Theo bản UCP 600, hành trình của hàng hóa phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể trên chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.
Nghĩa là trên giấy chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ chuyến hàng được giao từ cảng xếp hàng tới cảng dỡ hàng đã được quy định trong nội dung thư tín dụng (indicate shipment from the port of loading to the port of discharge state in the credit).
Còn trường hợp trên giấy chứng từ vận chuyển chưa xác định rõ được cảng xếp hoặc ghi cảng dự định xếp hàng thì khi xếp hàng lên tàu phải ghi chú rõ tên cảng xếp như quy định trong nội dung tín dụng, ngày xếp hàng lên tàu và tên tàu hàng đã xếp lên.
- Chuyển tải
Vấn đề chuyển tải được bản UCP 600 đề cập tới đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với việc vận đơn theo hợp đồng thuê tàu.
Ở Điều 20 và 21 của bản UCP 600, khoản b và c sau khi đã đưa ra khái niệm về chuyển tải, đã quy định là ở trên giấy chứng từ vận chuyển có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là tổng quát được toàn bộ hành trình vận chuyển chỉ sử dụng một và cùng một chứng từ.
Nếu như hàng hóa được chuyển giao bằng xe container, xe moóc hoặc sà lan tàu LASH ghi trên chứng từ, thì ngay cả khi trên tín dụng thư có cấm chuyển tải (even if the credit prohibits transhipment) thì các ngân hàng vẫn có thể chấp nhận một chứng từ vận chuyển ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra đối với chứng từ trên.(transhipment will of may take place).
- Chứng từ vận chuyển gốc
Trong việc chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, khi nhận hàng hóa để chở, người nhận hàng hóa để chở thường phát hành cho người gửi hàng 1 hoặc 1 bộ chứng từ vận chuyển gốc.
Ở nội dung này, bản UCP 600 cũng quy định cụ thể như sau: Khi xuất trình chứng từ vận chuyển gốc tại ngân hàng bạn có thể xuất trình một bản gốc duy nhất nếu phát hành một bản gốc, còn phát hành một bộ thì bạn phải xuất trình trọn bộ chứng từ gốc đã phát hành.
- Điều kiện và điều khoản chuyên chở
Với điều kiện và điều khoản chuyên chở hàng bằng đường biển, bản UCP 600 chỉ đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với nội dung vận đơn theo hợp đồng thuê tàu:
+ Đối với việc vận đơn bằng đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, bản UCP 600 quy định rằng “không thể hiện phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu”.
Chính vì vậy, trong nội dung của hai chứng từ này bạn phải chứa đựng được các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc bạn phải dẫn chiếu tới các nguồn khác chứa đựng những điều kiện và điều khoản chuyên chở (trường hợp vận đơn hay giấy gửi hàng mặt sau phải để giấy trắng).
Còn về nội dung của các điều kiện và điều khoản chuyên chở, theo quy định của bản UCP 600, thì các ngân hàng không có trách nhiệm gì để kiểm tra, xem xét.
+ Đối với việc vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, bản UCP 600 quy định có ghi trên đó là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu, nhưng mà hợp đồng thuê tàu đã có đầy đủ các điều kiện và điều khoản chuyên chở hàng, cho nên là bản UCP 600 không đề cập tới điều kiện và điều khoản chuyên chở trên vận đơn nữa.
Về mặt nội dung của hợp đồng thuê tàu, các ngân hàng cũng không có trách nhiệm gì kiểm tra và xem xét ngay cả khi hợp đồng thuê tàu phải xuất trình theo yêu cầu của thư tín dụng…
Trên đây là toàn bộ những quy định về chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và những nội dung cơ bản của UCP 600 cần quan tâm trong chứng từ vận chuyển đường biển khi xuất trình tại ngân hàng.
Vận Tải Top One Logistics hy vọng rằng các nội dung về bản UCP 600 được chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về bộ quy tắc này.
Liên hệ:
Name: Vận Tải Top One Logistics
Phone:901201166
Mail: vantaitoponelogistics@gmail.com
Address: 5 Hoàng Việt, Phường 4, Quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh
Nguồn:
https://vanchuyenhanggiatot.com/ucp-600-la-gi/
Nguồn liên quan:
https://gab.com/vantaitoponelogistics/posts/109076347538127593
https://vantaitoponelogistics.blogspot.com/2022/09/ucp-600-la-gi-tinh-chat-phap-ly-va-cach.html
https://sway.office.com/E2aQNHUyjLDhx26m
https://www.liveinternet.ru/users/vantaitoponelogistics/post495353918/